Xưa nay người
đi học đối với thầy và với học thuật của thầy tồn tại nhiều loại thái độ khác
nhau. Trong trường hợp ông thầy là một học giả, một người có uy tín học thuật
thì mối quan hệ hay cách nhìn của học
trò đối với đạo của thầy ( và đương nhiên là với cả thầy) thường thể hiện thành vài loại thái độ:
Loại thái độ
thứ nhất: càng học, càng đọc, càng theo thầy, càng nghiền ngẫm về đạo của thầy,
càng hiểu càng thấy thầy mình cao vời vợi, càng nghe càng thấy thầy như Thái
sơn Bắc đẩu sừng sững không thể và không cách gì với tới, chưa nói chuyện vượt
qua. Học trò càng học càng thấy mình nhỏ
bé yếu đuối. Đây có thể là một cảm giác mà học trò đối mặt, cảm nhận thấy một
cách nghiêm túc thực sự. Dĩ nhiên đó
cũng có thể là một biểu thị khiêm tốn, hoặc để tôn cao thầy. Cá biệt cũng có người đề cao thầy chẳng phải vì thầy mà là
một cách gián tiếp tôn cao mình. Các trường hợp này có thể tìm thấy khá phong
phú trong lịch sử giáo dục.
Trong các học
trò của Khổng phu tử, chúng ta biết người học trò được ông yêu quý nhất là Nhan
Hồi. Nhan Hồi là cao đệ bậc nhất được Khổng tử công khai thừa nhận và không tiếc
lời ngợi khen. Ông kỳ vọng Nhan Hồi có thể kế tục và phát triển được học thuyết
của mình. Về phía Nhan Hồi, ông tiếp thu
tất cả những gì mà thầy truyền dạy, những
điều thầy dạy bảo đối với Nhan Hồi đều là chân lý, đều thiêng liêng. Ông “ mặc
nhi thức chi” một cách tuyệt
đối và tiếp nhận trong mọi trường hợp, ngấm một chiều và ngấm một cách tự nhiên,
chỉ có hỏi thêm mà không thắc mắc. Cách tiếp thu của ông khiến nhiều người tưởng
ông là người ngu. Ông không hề thắc mắc
hay phản ứng gì. Có người cho rằng có thể năng lực trác việt đã khiến ông tiếp
nhận được và thấu triệt được tất thảy mọi sự truyền giảng phức tạp nhất từ thầy, tương tự như cặp thầy trò Thích
Ca – Ca Diếp với câu chuyện về một nhành
hoa bốn ánh mắt, hai nụ cười và một Thiền ngữ nổi tiếng.
Nhan Hồi nói về đạo của thầy: “Ngưỡng chi di cao, toản chi di kiên, chiêm chi tại tiền, hốt yên tại hậu.
Phu tử tuần tuần nhiên thiện dụ nhân,
bác ngã dĩ văn ước ngã dĩ lễ, ký kiệt
ngô tài nhi hữu sở lập trác nhĩ. Tuy dục tòng chi, mạt do dã dĩ” ( Luận ngữ.
Tử hãn) ( Càng ngẩng trông càng thấy cao, đục đẽo vào càng thấy cứng, vừa thấy
đằng trước, thoắt đã đằng sau. Phu tử giỏi dẫn dắt người từng bước từng bước, lấy văn mã mở mang cho ta, lấy
lễ mà ước thúc ta, ta đã vận dụng hết khả năng của mình mà vẫn thấy đạo của thầy
sừng sững trước mặt. Ta muốn theo đạo đó, nhưng chắc chỉ được phần nào mà thôi)
Trong lời Nhan Hồi tán dương đạo của thầy, ta
thấy có cả tiếng thở dài bất lực của người học trò vĩ đại này. Nhà nho thường
nói tới tinh thần Khổng Nhan lạc xứ,
tức cái vui, cái lạc thú của Nho gia trong việc tu thân dưỡng tâm, trong cuộc sống
nho môn đạm bạc, nhưng ở đây rõ ràng không phải lúc nào họ cũng vui, lúc nào
cũng lạc cả, thế mới là cuộc đời. Chữ Lạc của Nho là nói về thái độ sống, là
nói tới việc tu dưỡng, còn ở đây nhìn từ góc độ nhìn nhận và đối đãi với học
thuyết của thầy, Nhan hồi có chút bi kịch, bi kịch của học trò bị ngợp trong học
thuyết của thầy. Ông cố gắng biến mình
thành một hiện hữu sống của đạo đức theo mẫu mực mà Khổng tử mong muốn. Khổng tử
khen Nhan Hồi là người hiếu học, chỉ duy nhất ông được khen như vậy. Khi Nhan Hồi
chết, Khổng tử nói hiện không còn ai hiếu học nữa.
Ông Trình Hạo
đời Tống ca ngợi việc học của Nhan Hồi[1],
kiên quyết cho rằng nếu ông không chết sớm thì rất có thể sự học sẽ đưa ông tới sự chuyển hóa mà thành thánh
nhân, tiếc rằng ông đã không sống được tới ngày đó, vì thế ông chỉ là bậc hiền
giả mà thôi. Nếu ông sống tiếp, có thể
ông vẫn cứ thành thánh nhân với mẫu mực đạo đức tuyệt vời. Ta cũng không biết sau khi thành thánh nhân trông ông có tựa kẻ
ngu nữa hay không. Nhưng cứ giả sử như Nhan Hồi
không chết sớm, sự tôn sùng đạo của thầy đã khiến ông không mảy may nghi
ngờ, và vì thế khó có thể phát triển được học thuyết của thầy. Đã thấy đạo của
thầy tận thiện tận mỹ thì hẳn sẽ không nghĩ tới việc thêm vào hay sửa đổi cho tốt
thêm.
Khác với Nhan Hồi, Tăng Sâm lại là một mô thức
khác hẳn. Ông không được khen ngợi như
Nhan Hồi, nhưng cũng được Khổng tử coi là học trò giỏi và thường giảng giải cho
những điều cốt yếu. Tăng Sâm không bị
choáng ngợp trước thuyết của thầy, ông luôn tỏ ra chủ động nắm được điều cốt yếu,
then chốt, điểm quán xuyết học thuyết của thầy. Luận ngữ còn kể lại, một lần
Khổng tử nói với Tăng Sâm rằng: “ Sâm hồ, ngô đạo nhất dĩ quán chi”. Tăng Sâm
chỉ khẽ “ dạ”. Khi thầy Khổng đi ra, những
người khác hỏi Tăng Sâm rằng thầy vừa nói điều gì, Tăng Sâm trả lời, đạo của thầy chẳng qua chỉ là trung
thứ mà thôi. Tăng Sâm đã liễu ngộ được điểm cốt yếu của đạo thầy.
Loại thái độ
thứ hai: Mới được thầy truyền cho chút
ít đã thấy mình cũng chẳng kém ai, cũng vĩ đại rồi, tri thức nhân loại chỉ có chút
thế mà thôi, ông ấy thì chẳng có gì là lớn cả. Nếu thực tế đạo của thầy chẳng
ra gì thật thì không có gì phải bàn, nhưng cũng nên bày tỏ sự tôn trọng mà tìm
người khác giỏi hơn để mà học. Nguy hiểm thực sự là kẻ được học người giỏi mà
không thấy thầy hay, khinh mạn cho rằng mình hơn người, hơn thầy rồi.
Thái độ cầu học và đối đãi với sở học của thầy quả là không
dễ dàng gì. Sùng kính thái quá mà thấy mình nhỏ bé đi cũng không nên. Khinh mạn,
tự cao mà không biết tôn trọng thầy đương nhiên là khiếm khuyết về cả đạo đức lẫn
trí tuệ. Kẻ minh triết có lẽ là cần sáng
suốt tự thủ, thầy dẫu thật giỏi cũng nên cố học, cố tìm cái gì còn có thể bổ
khuyết để cầu tiến, thầy chưa thật giỏi thì cũng phải biết trân trọng những gì
mà thầy đã tạo ra để làm thêm, để đi tiếp. Trân trọng những giá trị tri thức,
tinh thần dù nhiều dù ít mà thế hệ trước tạo dựng, coi đó như nhũng viên gạch đặt
nền cho ta cao thêm. Đương nhiên, làm được thế trò cũng không thể là loại xoàng,
thầy cũng phải là người đáng làm thầy, đủ để dẫn dắt học trò.
Làm thầy
khó, làm trò cũng chẳng dễ
(11.2011. Nhân đọc lại bài Nhan tử sở hiếu hà học luận )