Sunday, November 21, 2010

THUYẾT “ BÁT VINH, BÁT SỈ” CỦA HỒ CẨM ĐÀO


Tháng 3 năm 2009, tại buổi họp tổ trong Đại hội toàn quốc Chính Hiệp (Hội nghị chính trị hiệp thương Trung Quốc-tổ chức chính trị xã hội tương đương với Mặt trận Tổ quốc của Việt Nam), Tổng bí thư Đảng Cộng sản, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Hồ Cẩm Đào đã đưa ra luận thuyết "Bát vinh, bát sỉ": tám điều lấy làm vinh quang, tám cái xem là sỉ nhục. Luận thuyết xây dựng quan niệm vinh, nhục  ngày nay của Hồ Cẩm Đào đang gây tiếng vang trong xã hội Trung Quốc.
Thuyết "Bát vinh, bát sỉ" thể hiện sự lo lắng và đối phó của những người lãnh đạo đất nước rộng lớn này đối với tệ suy thoái đạo đức, sự trống rỗng về các quan niệm giá trị hoặc quá thiên lệch về giá trị vị lợi, coi lợi là trên hết của một bộ phận không nhỏ trong xã hội. Đối tượng mà thuyết này nhằm tới chủ yếu là lực lượng cầm quyền. Vì vậy có thể xem  thuyết "Bát vinh, bát sỉ" là những đòi hỏi, hay những chuẩn mực mới về đạo đức người cầm quyền.
Sau khi thuyết này ra đời, người Trung Quốc đã mở cuộc vận động lớn để quán triệt và học tập với rất nhiều hình thức phong phú. Người ta diễn ca diễn xứng tám nội dung vinh nhục này. Có người soạn thành dạng  thiên tự văn  cho dễ nhớ dễ thuộc. Các nhân sĩ tổ chức rất nhiều buổi diễn giảng, thảo luận về các nội dung "Bát vinh, bát sỉ". 
Có mấy điểm đáng chú ý:
-                           Các quan niệm giá trị được diễn tả rất ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ dễ nhập tâm, một loại hình thức tuyên truyền giáo dục rất có hiệu quả trong truyền thống Trung Quốc.
-                           Nó có dáng dấp loại hình “ đế huấn”, “ thánh huấn” thời trung đại.
-                           Quan niệm vinh nhục ngoài vài phần nói về trách nhiệm và tình cảm đối với tổ quốc và khoa học ra, các vấn đề còn lại hầu hêt đều kế thừa tư tưởng của Nho gia. Vấn đề nghĩa-lợi, quan hệ  kỷ - nhân, được đặc biệt nhấn mạnh. Về cơ bản nó vẫn là vấn đề đạo đức cần kiệm liêm chính chí công vô tư.
-                            "Bát vinh, bát sỉ" có nói tới việc tránh  lợi mình hại người, tuy nhiên không thấy có điểm nào nói về thái độ đối với “ tứ hải” trên thế giới.

Sau đây xin giới thiệu nội dung của  八荣八耻”  BÁT VINH BÁT SỈ (Tám điều vinh, tám điều nhục)

  以热爱祖国为荣、以危害祖国为耻;
Love; do not harm the motherland.
Lấy yêu tổ quốc làm vinh;  tổn hại  tổ quốc làm nhục.
  以服务人民为荣、以背离人民为耻;
Serve;don’t disserve the people.
Lấy phục vụ nhân dân làm vinh,  xa rời nhân dân  làm nhục.
  以崇尚科学为荣、以愚昧无知为耻;
Uphold science;don’t be ignorant and unenlightened.
Lấy đề cao khoa học làm vinh, ngu dốt làm nhục.
  以辛勤劳动为荣、以好逸恶劳为耻;
Work hard; don’t be lazy And hate work.
Lấy chuyên cần làm vinh, lười nhác làm nhục.
  以团结互助为荣、以损人利己为耻;
Beunited and help each other; don’t gain benefitsat   theexpense of others.
Lấy đoàn kết tương trợ làm vinh, hại người lợi mình làm nhục.
  以诚实守信为荣、以见利忘义为耻;
Behonest and trustworthy;don’t chaseprofitat theexpense of your values.
Lấy thành thực giữ tín làm vinh, thấy lợi quên nghĩa làm nhục.
  以遵纪守法为荣、以违法乱纪为耻;
Be disciplined and law-abiding; don’t break laws andviolate disciplines.
Lấy tuân thủ pháp luật kỷ cương làm vinh, phạm pháp làm  nhục.
   以艰苦奋斗为荣、以骄奢淫逸为耻;
Know plain living and hard struggle; do not wallow in luxuries and pleasures.
Lấy phấn đấu gian khổ làm vinh; kiêu sa dâm dật làm nhục.






Friday, November 12, 2010

SỰ ĐAN XEN CÁC KHUYNH HƯỚNG THẨM MỸ TRONG THƠ HUYỀN QUANG




 SỰ ĐAN XEN CÁC KHUYNH HƯỚNG THẨM MỸ
TRONG THƠ HUYỀN QUANG -Nghiên cứu trường hợp sáu bài thơ vịnh cúc

(Bài viết đã đăng trên Nghiên cứu  Văn học, số 4, 2009. Tr 75-89)

Nguyễn Kim Sơn



Huyền Quang (1254-1334) hiện còn để lại một di sản văn chương vào loại khiêm tốn, với một bài phú Nôm  Vịnh Hoa Yên tự phú và vài chục bài thơ chữ Hán, nhưng nếu nhìn trong tương quan với phần nhiều các tác gia thời kỳ Lý Trần  thường chỉ còn lại vài ba bài, thì đó lại là một gia tài không nhỏ. Trong số 23 bài thơ chữ Hán, người viết đặc biệt hứng thú, quan tâm tới một chùm thơ vịnh hoa cúc gồm 6 bài.  

Sáu bài thơ vịnh hoa cúc được ghi số từ kỳ nhất (bài thứ nhất)  tới kỳ lục (bài thứ sáu), đọc kỹ các bài thơ thấy chúng được viết  vào các thời gian khác nhau. Các bài thơ này được tập hợp lại thành một chùm thơ chỉ vì cùng một đề tài  vịnh hoa cúc, còn ngoài ra không thấy có mối liên hệ  lô gic nào giữa chúng. Trình tự các bài thơ có thể đảo đi mà không ảnh hưởng gì tới nội dung của các bài.  Vì vậy trong khi trình bày bài viết, chúng tôi có thể để ý tới bài này trước hoặc bài kia trước mà không tuân theo trình tự .

1.      Bắt đầu bằng câu chuyện của thơ vịnh vật

Thơ vịnh vật là một tiểu loại của thơ đề vịnh. Đối tượng của nó là vật, và cả sự  vật. Nó có thể là những vật cụ thể như các cây, con, tùng trúc cúc mai, long ly quy phượng, hay  đóa hồng, con kiến, con cóc con muỗi, hay sự vật sự việc như gió mưa sấm chớp trăng sao…Người ta thường căn cứ, dựa vào những đặc điểm, đặc tính tự nhiên nổi bật, dễ nhận thấy và được đông đảo mọi người trong cộng đồng nào đó thừa nhận, rồi nhân đặc điểm đó người ta gửi gắm một triết lý, tư tưởng hay tình cảm nào đó.  Đặc tính nổi bật của vật chỉ là chỗ dựa, là phương tiện, là một loại phù hiệu để thể hiện cho một tinh thần của chủ thể thẩm mỹ- tức người vịnh- thi nhân. Những đặc tính tự nhiên của vật là cái cớ không thể thiếu để triển khai tư tưởng, bày tỏ tình cảm, triết lý, nhưng nếu chỉ có thể hiện đặc tính của vật không thì nó lại chỉ là những câu đố về sự vật hay những bài đồng dao câu hát của trẻ con, dạy trẻ con về sự vật, sự việc, nó chưa phải là thơ vịnh vật. Do vậy có thể tạm định nghĩa về thơ vịnh vật: Thơ vịnh vật là tiểu loại của thơ đề vịnh, dùng sự vật làm đối tượng trung tâm của tác phẩm để thông qua những đặc điểm, tính chất của vật mà gửi gắm nỗi niềm. Thơ vịnh vật phản ánh tâm trạng, mang đậm dấu ấn cá nhân nhưng cũng đi theo thị hiếu thẩm mỹ của thời đại. Nó là thơ trữ tình và cũng thuộc phạm vi “thi ngôn chí”.

Do chỗ mượn vật để nói chí, để triết lý, trữ tình, vì vậy thơ vịnh vật một cách tự nhiên luôn hướng tới  kiến tạo những tầng thứ ngữ nghĩa ngoài ngôn từ. Tỷ hứng được huy động làm thủ pháp nghệ thuật tiêu biểu của loại hình thơ đề vịnh nói chung và thơ vịnh vật nói riêng.

 Thơ vịnh vật xuất hiện rất phổ biến trong hầu hết  thi tập của các nhà nho, chẳng hạn như Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm…Thơ vịnh vật xuất hiện trong thơ trung đại Việt Nam không thật sớm. Quan sát thơ của các thiền sư thời Lý Trần chúng ta thấy hầu như chưa thấy xuất hiện một số lượng đáng kể loại thơ vịnh vật với đặc trưng tiêu biểu của thể tài. Một chùm thơ vịnh vật cùng chủ đề, tập trung tới 6 bài  của Huyền Quang là trường hợp sớm nhất. Vấn đề trở nên hấp dẫn chính là ở chỗ: Tại sao thơ các thiền sư đời Lý, Trần hầu như không vịnh vật nhiều?  Tại sao tới Huyền Quang  mới xuất hiện một cách tập trung như vậy?  Giữa đặc trưng của thơ vịnh vật và sự xuất hiện muộn của tiểu loại này có gì tương liên với nhau?  Những bài vịnh vật của Huyền Quang đã tiêu biểu cho tiểu loại này về các tiêu chí thể tài hay chưa? Sự xuất hiện loại hình thơ vịnh vật đó có ý nghĩa gì trong lịch sử văn học .

Quan sát 6 bài thơ vịnh cúc của Huyền Quang ta thấy,  có mấy bài thực sự tiêu biểu cho đặc trưng thể tài, như bài số 1, số 4 và bài số 6. Các bài này đều trước sau ca vịnh tỷ hứng, ký thác trên cơ sở đặc tính  của hoa cúc. Các bài  số 2, số 3 và 5 cũng có thể coi là thơ vịnh vật ở một vài phương diện, nhưng  không phải là những bài chuẩn theo tiêu  chí thể tài. Những bài này về mặt tư tưởng, tình cảm, triết lý, của người sáng tạo gửi gắm thì rất phong phú, nhưng lại hầu như  không dựa theo đặc tính của sự vật để bày tỏ. Bông cúc trong ba bài thơ này cũng chỉ là một sự vật được xuất hiện, được nhắc tới  như những sự vật khác có trong những bài thơ đó mà thôi.

Trước Huyền Quang, các sự vật cũng đã được nhắc nhiều trong thơ, nhưng được nói tới theo cách, chẳng hạn nhành mai trong bài kệ của Mãn Giác:

Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai.
Sự trục nhãn tiền quá,
Lão tòng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận,
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.

Đây không phải là bài thơ vịnh mai, vì nó không ca vịnh tỷ hứng ký thác trên cơ sở đặc tính tự nhiên của bông mai. Nhành mai của sự ngộ đạo bất sinh bất diệt của Mãn Giác không giống với nhành mai trắng tinh khiết nở trong tiết xuân sớm, giữa tuyết trắng và băng giá biểu thị cho sự thanh khiết tinh thần và nhân cách trong sáng của sĩ phu thường gặp trong thơ vịnh mai.

Trong thơ của Trần Nhân Tông, ta cũng thấy một bông hồng:

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không,
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung.
Như kim khám phá đông hoàng diện,
Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng.
(Thuở trẻ chưa từng thấu hiểu lẽ sắc không,
Mỗi mùa xuân sang, lòng rộn ràng cùng trăm hoa.
Như nay đã thấy hiểu bộ mặt thực của chúa xuân,
Ngồi trên bồ đoàn mà tĩnh lặng nhìn những cánh hồng rơi.)

Bài này cũng không phải là bài thơ vịnh hồng. Cả hai bài trên nếu thay nhành mai bằng nhánh cây khác, thay bông hồng bằng bông hoa khác ta vẫn thấy không hề ảnh hưởng tới  ý nghĩa của bài thơ, không ảnh hưởng tới sự thể hiện thiền ý sâu sắc của bài thơ.

Những bài kiểu như bài vịnh Mai của Trần Nhân Tông là khá hiếm hoi:

Thiết đảm thạch can lăng hiểu tuyết,
Cảo quần luyện thuế nhạ đông phong.
Nhân gian kiện tố Hán Văn đế,
Thiên hạ anh hùng Đường Thái Tông.
(Gan dạ, sắt đá vượt lên tuyết buổi sớm,
Quần lụa mộc, khăn lụa trắng đón gió đông.
(Như) Hán Văn Đế là người tiết kiệm, mộc mạc trong nhân gian,
(Như) Đường Thái Tông là bậc anh hùng trong thiên hạ.

Bài này rõ ràng có khí khái hơi khác với tinh thần tùy duyên nhậm vận, một loại cảm hứng và một triết lý thiền tiêu biểu và nổi bật trong thơ Trần Nhân Tông, nó thiên về thơ ngôn chí kiểu Nho gia. Bài thơ thể hiện  chí hướng muốn có được những phẩm chất hơn người, mong làm nên sự nghiếp đế vương như Hán Văn Đế, Đường Thái Tông. Bài này có thể ví như một bông hoa lạ báo hiệu  sự nảy nở và bắt đầu của loại thơ vịnh vật.

Dường như, với tính chất tiêu biểu là thơ ngôn chí, thơ vịnh vật chưa có chỗ đứng và thực sự không thật thích hợp với thơ của các Thiền sư. Việc diễn tả những thiền lý thiền thú cũng cần nhắc tới sự vật, cây cỏ, muông thú, nhưng đó không phải là thơ vịnh về chúng. Vịnh vật để ngôn chí, để trữ phát tình cảm là câu chuyện có thiên hướng dành cho các nhà Nho[1]. Những đặc tính tự nhiên của vật được mượn để diễn tả về một thế giới tinh thần, phẩm chất đạo đức, tài năng của chủ thể, thì thế giới tinh thần  phải mang tính thực tại, là hữu, là động… chứ không phải tinh thần thinh không tĩnh tịch, không phải là trạng thái tinh thần siêu việt thị phi, danh lợi, động tĩnh…Ngôn chí không phải là chuyện của Thiến sư.

Huyền Quang có hẳn tới 6 bài thơ vịnh về hoa cúc, như vậy là đã “có chuyện” gì đó diễn ra trong lịch sử văn học.

2.      Siêu việt và thực tại – sự đan xen các khuynh hướng thẩm mỹ

Mùa thu theo thời tiết của Trung Quốc, ở vùng phía Bắc và Trung nguyên( nơi mà nền thi ca chữ Hán phát triển và ảnh hưởng ra toàn cõi Đông á) là mùa khắc nghiệt, trời bắt đầu lạnh, khô và nhiều sương. Thời tiết này không phải là thuận lợi cho cây cỏ phát triển, phần lớn các loài cây cỏ hoa lá đều nở hoa vào tiết xuât, mùa hạ phát triển, mùa thu trái chín và mùa đông  cây nghỉ ngơi tránh rét, ủ mầm cho một mùa mới (xuân sinh hạ trưởng thu liễm đông tàng). Mùa thu ở Việt Nam tuy không khắc nghiệt bằng mùa thu ở miền Bắc Trung Quốc nhưng cũng là mùa không thuận cho cây trổ hoa.  Một bông cúc tự nhiên thường nở vào mùa thu, đúng vào thời tiết  các loài không thể nở. Đặc tính tự nhiên này của hoa cúc là nguồn gợi tứ cho thi nhân, là chất liệu để thi nhân ký thác, tỷ dụ cho những phẩm chất vượt trội của tinh thần người quân tử. Trong tinh thần của thi nhân xưa, hoa cúc nở vào mùa thu là sự hiện hữu sinh động cho sức mạnh tinh thần, do kết quả của công phu rèn luyện. Nó thể hiện cốt cách vượt trội và đạo đức thanh khiết. Đặc điểm tự nhiên này của bông cúc theo cách nhìn của nhà nho, nó được nhân hóa để làm biểu tượng cho  sức mạnh tinh thần và đạo đức, sự ưu trội của riêng một nhóm nhỏ kẻ sĩ. Trong những bài thơ đề vịnh của nhà nho, bông cúc  hoàn toàn hiện diện với những mục đích ký thác tỷ dụ như vậy. Chẳng hạn bài thơ Nôm Cúc của Nguyễn Trãi:

Nào hoa chẳng bén khí dầm hâm,
Có mấy bầu sương nhụy mới đâm.
Trùng cửu chớ hiềm thu đã muộn,
Cho hay thu muộn tiết càng thơm

 Nhà Nho coi  bông cúc nở trong sương cũng giống như người quân tử tu dưỡng đạo đức, cốt cách, tinh thần. Khó khăn gian khổ là điều kiện rèn luyện họ, là cơ hội để họ thể hiện những phẩm chất riêng có của mình. Cái đẹp của hình tượng bông cúc trong thơ vịnh của nhà nho là cái đẹp của tinh thần nội tại, của những phẩm chất đạo đức và tài năng vượt trội, của nhân vi, của sự cố gắng,  cái đẹp đó mang tính thực tại, thực hữu.

Với các bài thơ vịnh của Huyền Quang, trước hết xét 3 bài thơ mà theo tôi là tiêu biểu cho các tiêu chí của thơ vịnh trước, rồi sau sẽ xét tới 3 bài còn lại:

菊花其一
松聲蔣詡先生徑,
梅景西湖處士家。
義氣不同難苟合,
故圓隨處吐黃花. [2]

Phiên âm
Cúc hoa- kỳ nhất
Tùng thanh Tưởng Hủ tiên sinh kính, 
Mai cảnh Tây Hồ xử sĩ gia. 
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp, 
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa.

Dịch nghĩa
Tiếng thông reo  ngõ nhà tiên sinh Tưởng Hủ, [3]
Cảnh hoa mai ở nhà xử sĩ Tây hồ.[4]
Nghĩa khí khác nhau, khó có thể hòa hợp bừa bãi,
Vườn cũ hoa cúc  đã tùy chỗ thích hợp của nó mà nở vàng khắp nơi.

Cây tùng ngõ nhà Tưởng Hủ và hàng mai nhà Hàn Thế Trung đều là những giống cao quý cả, nó được nhắc đến cùng với phẩm chất thanh cao, ẩn cư cầu chí của chủ nhân chúng. Bông cúc của Huyền Quang nở không cốt khoe đức thi tài mà trong vườn xưa, tùy nơi thích hợp của nó mà khoe sắc. Hai chữ   tùy xứ hướng người ta cảm nhận về bông cúc tùy duyên, chỗ nào gặp duyên thì mọc hữu duyên thì nở, vậy thôi. Sự khác biệt với cây tùng cây mai của hai nhà ở chỗ không mục đích đặt sẵn, không chủ ý để tượng trưng. Nghĩa khí khác nhau không thể hòa hợp  cẩu thả được,  vừa thể hiện thiền ý  về một bông cúc tự nhiên nhậm vận không lệ thuộc vào một tinh thần nào, một mong muốn hay ký ngụ nào, nhưng lại đồng thời cũng  kín đáo thể hiện một tinh thần  tự tín và cốt cách. Bài này vừa có thiền tứ lại vừa có dáng dấp kiểu loại thơ ngôn chí  thể hiện cái đẹp kiểu thi ca nhà Nho, mặc dù chưa thực tiêu biểu.

Tiếp tới bài 4:

菊花其四
年年和露向秋開,
月淡風光愜寸懷。
堪笑不明花妙處,
滿頭隨到插歸來。

Phiên âm
Cúc hoa- kỳ tứ
Niên niên hoà lộ hướng thu khai, 
Nguyệt đạm phong quang thiếp thốn hoài. 
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ, 
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai[5].

Dịch nghĩa:
Cúc hoa, (bài 4)
Hàng năm, hoa cúc nở cùng  sương thu,
Trăng thanh gió mát thỏa mãn tấc lòng.
Cười thay cho kẻ không hiểu lẽ vi diệu của hoa,
Ngắt hoa dắt đầy đầu đi về nhà.

Bông cúc trong bài này thực sự là một bông cúc khác lạ, độc đáo. Đặc tính tự nhiên của loài cúc được khai thác, được khám phá, để thể hiện cho một loại tinh thần chủ thể thẩm mỹ giống như thông lệ các bài thơ vịnh vật để ngôn chí khác. Nhưng bông cúc này nở trong tiết thu chẳng phải là kết quả của bất kỳ một cố gắng nào. Nó cũng không nhằm thể hiện một đặc tính vượt trội nào. Giống như muôn loài nở trong tiết xuân vì thấy xuân ấm áp sung sướng. Bông cúc nở trong thu cũng nở vì nó thấy thỏa mãn và chỉ thỏa mãn trong tiết thu. Trăng thanh gió mát nó thấy thỏa mãn tấc lòng. Không cố gắng, không có gì trái, không có gì phân biệt. Nó nở không phải để chứng minh hay thể hiện phẩm chất đặc biệt nào hết, nó cũng giống như muôn loài trong tiết xuân mà thôi. Cái “diệu” ( vi diệu) của hoa chính là ở chỗ không gì khác đó. Cái không gì khác đó lại chính là cái vi diệu của nó. Cười thay cho kẻ nào không hiểu được lẽ tự nhiên của nó, ngắt lấy những bông hoa dắt đầy đầu trở về để đổi lấy nụ cười cho giai nhân. Điều đó cũng có nghĩa là cười thay cho những kẻ không hiểu lẽ tùy duyên tùy tục, lấy cái tiêu chuẩn công lợi của thế tục để ứng dụng đối đãi với hoa kia. Bông cúc thực sự là bông cúc nhậm vận tùy duyên, bông cúc nhiệm tự nhiên, bất nhị bất đãi. Một hình tượng bông cúc mang cái đẹp của sự thanh thoát, tự nhiên của tinh thần chủ thể mang đậm chất thiền và cũng đồng thời là cái đẹp tự nhiên nhi nhiên theo tinh thần của  Đạo gia. 

 Bài này nổi bật cảm hứng và thẩm mỹ của Thiền, nhưng cũng có dấu ấn của Đạo gia  xét về tinh thần tùy tục tùy thời, nhiệm tự nhiên, vô biệt, còn cách  thể hiện, cách thức tìm công cụ để “ngoại hóa” cho  một tâm linh tự lạc thì lại là cách của Nho gia.

Chúng ta quan sát tiếp bài thứ 6:

菊花其六
春來黃白各芳菲,
愛艷憐香亦似時。
遍界繁華全墜地,
後彫顏色屬東籬。

Phiên âm
Cúc hoa- kỳ lục
Xuân lai hoàng bạch các phương phi, 
Ái diễm lân hương diệc tự thì. 
Biến giới phồn hoa toàn truỵ địa, 
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.

Dịch nghĩa
Xuân đến muôn loài hoa trắng vàng đều ngát hương,
Lòng yêu hương tiếc sắc cũng đồng thời xuất hiện[6].
Đến khi các loài hoa tươi tốt khác tất cả đều đã tàn rụng,
Nhan sắc tàn phai sau cùng là bông hoa ở dậu phía đông[7].

Cái đẹp của hình tượng hoa cúc không hẳn phải là cái đẹp  thanh tĩnh của thiền, nhưng lại không phải hoàn toàn không có. “Xuân tới muôn loài hoa trắng vàng đều ngát hương; Lòng yêu hương tiếc sắc cũng đồng thời xuất hiện”. “Ái diễm lân hương” hay nói cách khác “thương hoa tiếc nguyệt” cũng là chuyện của thế tục . Nó cũng như chuyện của xuân tới trăm hoa nở, xuân đi trăm hoa tàn. Nó là xu thời, là thói thường, là chuyện của kẻ chưa ngộ đạo. Nó cũng là thói của kẻ “bất minh hoa diệu xứ” trong bài trên. Hai câu đầu rất gần với bài của Trần Nhân Tông: “Niên thiếu hà tằng liễu sắc không; Nhất xuân tâm tại bách hoa trung”. Thương hoa tiếc nguyệt vốn là chuyện của thế nhân. Người ta đâu có biết hoa nguyệt là chuyện không chân thực, không vững bền.  Cái đẹp cùng hương thơm của hoa một chiều mất đi sinh ra lòng tiếc thương buồn bã. Nếu ngộ đạo, biết được cái chân thực của tạo vật, thì hoa nở hoa tàn không làm sinh lòng ái  hoặc  lân nữa. Không nên tựa vào cái giả tướng, không nên cho nó là chân thực. Trong cái giả tướng, sắc tướng trình diện ra, cần nhìn thấy cái bản chân của đạo, cái bản chân đó không theo con mắt nhìn của thế tục mà thấy được.

Biến giới phồn hoa toàn trụy địa;
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly.
(Đến khi tất thảy mọi loài hoa rụng hết,
Mới hay bông cúc trước dậu tàn úa sau cùng).

Hai câu cuối này thể hiện khá nhiều ý tứ. Trong cái đa biến, sắc tướng tìm thấy cái trường tồn bất biết. Trong cái giả tướng tìm cái thực tướng. Hai câu này hợp cùng ý tứ hai câu trên tạo thành một Thiền tứ tuy không triệt để và tiêu biểu như Trần Nhân Tông : “Như kim khám phá đông hoàng diện; Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng).

Toàn bài và đặc biệt là hai câu cuối cũng lại khiến người ta dễ cảm nhận hơn tới một cái đẹp khác, cái đẹp của bông cúc vượt trội với năng lượng sống hơn hẳn mọi loài. Nó được nhìn giống như nhà Nho nhìn cây tùng: “tuế hàn nhiên hậu tri tùng bách nhi hậu điêu” (năm rét qua mới hay tùng bách là những loài tàn úa sau cùng). Thế nhân  như những bông hoa khoe sắc trong xuân rồi tàn úa mau chóng. Chỉ có bông cúc cốt cách người quân tử vẫn còn  lại trên dậu đông khi mọi loài đã tàn úa.  Nó là tư thế xuất quần bạt tụy của nhân cách lý tưởng. Không chỉ có vậy, việc nhắc tới hoa cúc kèm theo điển cố về  Đào Uyên Minh “Thái cúc đông ly hạ, Du nhiên kiến Nam sơn”, lại còn cho thấy cả cái du nhiên tự tại của người ẩn sĩ bảo tồn thiên tính bất biết, con người trọn vẹn với bản tính tự nhiên hoang sơ mà cầu lạc theo tinh thần của Đạo gia.  Bông cúc vẫn còn và còn mãi trên dậu nhà Đào Tiềm và những ẩn sĩ thi nhân khác thời kỳ trung cổ để biểu thị cho tinh thần thiên tính tự nhiên bất biến, không nổi chìm theo thế tục, không a dua theo thế nhân, thanh khiết, cốt cách, bền bỉ và ưu trội. 

Một bài thơ nổi ở nơi tầng trực diện cái đẹp của thơ vịnh cúc kiểu Nhà Nho, quán xuyến bởi triết lý Thiền và ẩn tàng cái đẹp tự nhiên thiên thành của Lão Trang.

Qua 3 bài tiêu biểu cho tinh thần và tiêu chí của thơ vịnh ở trên,  có thể thấy Huyền Quang đã dùng thi pháp của thơ vịnh, một loại thơ ngôn chí tiêu biểu để thể hiện một đời sống tinh thần phong phú, một thế giới thẩm mỹ phức hợp đan xen, đa chiều. Trong đó, người đọc có thể nhận thấy sự kế tục tiếp nối, hòa nhịp cảm hứng tùy duyên nhậm vận, an thời xử thuận  đã xuất hiện  trong Thiền thời Lý, cực thịnh trong thơ Tuệ Trung thượng sĩ, Trần Nhân Tông đời Trần. Giữa cái đẹp nhậm vận, tự nhiên, lại đã thấy xen vào đó hình tượng bông cúc với cái đẹp tinh thần  đạo đức ưu trội, cái đẹp tu dưỡng rèn luyện, nhân vi, thực tại, thực hữu, cảm xúc của nhà Nho.  Tâm tính học của Nho gia dần đan xen vào  cùng thiền ý thiền tứ ở nơi người tu hành. Chúng ta sẽ quay lại vấn đề này sau khi quan sát tiếp 3 bài còn lại trong chùm thơ vịnh cúc.

Bài thứ 2:
菊花其二
大江無夢浣枯腸,
百詠梅花讓好粧。
老去愁秋吟未穩,
詩瓢實為菊花忙。

Phiên âm:
Cúc hoa- kỳ nhị
Đại giang vô mộng hoán khô tràng, 
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang. 
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn, 
Thi biều thực vị cúc hoa mang.

Dịch nghĩa:    
Không mơ lấy nước sông lớn rửa tấc lòng khô héo,
Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh phải nhường vẻ đẹp.
Tuổi già lại buồn vì thu, làm thơ vẫn chưa xong,
Nhưng túi thơ thì thực vì hoa cúc mà bận rộn.

Bài thứ 3
菊花其三
忘身忘世已都忘,
坐久蕭然一榻涼。
歲晚山中無歷日,
菊花開處即重陽。

Phiên âm:
Cúc hoa- kỳ tam
Vương thân, vương thế, dĩ đô vương, 
Toạ cửu tiêu nhiên nhất tháp lương. 
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật, 
Cúc hoa khai xứ tức Trùng Dương.

Dịch nghĩa
Quên thân, quên đời, tất cả đều đã quên,
Ngồi lâu trong im ắng, cả một giường lạnh.
Cuối năm trong núi không có lịch,
Khi hoa cúc nở, ấy là tiết trùng dương.

Bài thứ 5
菊花其五
花在中庭人在樓,
焚香獨坐似忘憂。
主人與物渾無競,
花向群 出一頭

Phiên âm:
Cúc hoa- kỳ ngũ
Hoa tại trung đình nhân tại lâu, 
Phần hương độc toạ tự vong ưu. 
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh, 
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu.

Dịch nghĩa
Hoa ở giữa sân, người trong lầu,
Đốt hương, ngồi một mình tựa như quên hết sầu lo.
Người và vật hồn nhiên không tranh cạnh,
Hoa hướng về phía mọi loài trổ một bông

Cả ba bài thơ cùng tô đậm một hình tượng người ẩn sĩ. Trong thơ Thiền không có hình tượng người ẩn sĩ tiêu biểu, thực thụ. Xuất gia tu thiền trong thực tế  đã vượt ra ngoài cả hai phạm trù xuất và xử. Thiền sư nằm ngoài cả chuyện ẩn và hiện, hành và tàng. Ẩn sĩ cơ bản thuộc phạm trù của Nho gia và Đạo gia. Thực tế thì khi nhà Nho ẩn dật họ cũng tìm tới phương cách ứng xử của Đạo gia. Nói tới chữ ẩn, Đạo gia vẫn là nét văn hóa, nét thẩm mỹ tiêu biểu nhất.

Trong ba bài thơ trên, một chữ QUÊN (vong) quán xuyến và nổi bật. Bài 3 nói về trạng thái TỌA VONG.[8] Quên mình, quên đời tất thảy đều quên hết. Quên ngoài kia là thời nào triều đại nào giống như người lạc vào Đào hoa nguyên. Một thứ thời gian không thời gian ([9]). Mà thực chất cũng không phải không  thời gian, mà là thời  gian tâm lý. Tâm lý của người ẩn dật không trông ngóng, không chờ đợi, tiễn đưa. Nó là nhịp thời gian tự nhiên. Thời gian không bị co vào hay giãn ra bởi một trạng thái tinh thần nào. Không có dấu ấn tâm lý vì đã quên cả rồi, quên thân mình quên đời rồi. Con người đạt tới tọa vong tức đã đồng nhất với đại tự nhiên, cùng một nhịp với tự nhiên. Vì vậy không cần lịch nữa, hoa cúc nở thì ờ ờ dường như mùa thu đã tới, đã là tiết trùng dương. Trạng thái thời gian tự nhiên như vậy phản ánh tâm cảnh của người ẩn sĩ thanh thản vô ưu. Bài 5 cũng nói về việc ngồi quên, nói về “Tọa”, nhưng không phải tọa thiền, mà là tọa vong, tức ngồi quên, quên ưu tư, quên sầu muộn đi. Có thể nói tinh thần chung, cái đẹp của hình tượng thơ trong ba bài trên là cái đẹp tự nhiên, thoát ly khỏi đời sống xã hội, ưu hoạn của cuộc đời. Ảnh hưởng của tư tưởng và tinh thần thẩm mỹ của Đạo gia là nổi bật nhất. 

Cũng trong bài 5 tác giả nói tới tư tưởng bất tranh, bất nhị: “chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh” (người và vật hồn nhiên không tranh cạnh, trở thành nhất thể không phân biệt). Đó cũng là cảnh giới chủ thể thẩm mỹ và khách thể thẩm mỹ hợp chi vi nhất, không phân biệt, nội ngoại chủ khách đều tiêu vong.  Đây lại là một trạng thái tinh thần vật ngã lưỡng vong, chủ khách lưỡng vong phổ biến trong cả Thiền và Đạo. Nhưng cái lưỡng vong và tự nhiên hồn thành đó lại không triệt để bởi nó đột nhiên, đột xuất lồi” ra một bông hoa vượt trội xuất quần ở câu thơ cuối cùng: “Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu”. Chỉ một câu thơ cuối cùng thôi, cũng đủ đưa bài thơ trở lại thế giới của thơ ngôn chí. Lời  đề, thực và luận là của ông tu sĩ thiền viện và đạo quán nhưng câu cuối cùng lại là của một ông nhà Nho chỉ về phía bản thân mình mà nói lời kết bao trùm.

Thế giới tinh thần và thế giới thẩm mỹ khó phân cắt nhất chính là bài thứ 2. Hình tượng một ông già hồn hậu, đắc đạo an nhiên. Cuộc đời thật bận rộn, nhưng là bận rộn với những vần thơ về hoa cúc. “Thi biều thực vị cúc hoa mang.” (Bầu thơ thực vì bông cúc mà trở nên bận rộn).  Bài này nếu để lẫn vào thơ của các nhà nho có ý hướng ẩn dật thời sau thực cũng khó tìm ra sự khác biệt. Hình tượng cúc trong bài khá giống cách nói của các nhà nho khi muốn khoe rằng việc đời ông đã điếc hai tai. Nó cũng thống nhất với hình tượng con người quên đời quên người ở bài 3. Cái bận rộn của nhà thơ cũng giống như Nguyễn Bỉnh Khiêm bận “cày mây cuốc nguyệt gánh yên hà” vậy. Đọc cả ba bài thơ, người ta vẫn cảm nhận thấy một thế giới tinh thần thực tại, hiện hữu, trần thế, nó hướng vào thể hiện một thế giới nội tại nhiều tâm sự và thoáng chút buồn bã cô đơn. Ông nói tới việc quên mình, quên đời điều đó chứng tỏ ông có nhiều cái cần quên. Ông quên mình, quên đời, nhưng tâm chưa lạnh giá, tức cái ẩn theo lối của Đạo gia chưa hết mực. Ở đó có cái thanh lặng của cõi Thiền, nhưng lại khác cái vui của cõi lạc đạo. Tinh thần của một nhà Nho ẩn dật đã rất nổi bật trong thơ ông.

Nhìn lại cả chùm thơ đề vịnh hoa cúc, ta thấy về hình thức và đặc trưng thể tài, lần đầu tiên trong văn học trung đại xuất hiện một chùm thơ khá tiêu biểu cho thể loại đề vịnh như vậy. Điều đó cũng có nghĩa con đường của thơ ngôn chí đã mở. Ông đã dùng phương cách tư duy nghệ thuật của nhà Nho để thể hiện một thế giới tinh thần, một thế giới thẩm mỹ đa dạng. Trong thế giới thẩm mỹ đó vừa có cái thanh tĩnh siêu thoát, tự nhiên nhậm vận của thiền, tiếp nối dòng mạch của văn chương Lý Trần, lại vừa có cái tự nhiên thiên thành, thanh tĩnh tự tại của Lão Trang và yếu tố thực tại, nội tại  của tinh thần tôi luyện, cốt cách thanh cao kiểu của nhà Nho. Thơ ông vừa có cái thường của văn chương đời Trần, vừa có cái biến của buổi tinh thần nhà Nho ngày một mạnh lên.

 Lê Quý Đôn khi bàn về những thi phẩm Huyền Quang đã từng nói thơ ấy “không có khẩu khí nhà chùa”, điều đó là có lý, nhưng cũng lại chỉ đúng một phần. Cái gọi là khẩu khí nhà chùa thể hiện ở Thiền ngữ và Thiền lý thể  trực diện và đậm đặc trong thi ca như thơ các thiền sư đời Lý thì quả không thể tìm thấy trong thơ Huyền Quang. Tuy nhiên, chất Thiền lại đằm sâu hơn trong tinh thần. Nó hòa vào những cách cảm, cách nghĩ về cuộc đời, về thiên nhiên, con người.  Ba cảnh giới tinh thần của Thiền, Lão Trang và Nho gia cùng tồn tại ở một chừng mực không mâu thuẫn, không bị phá vỡ bởi sự nổi trội thực sự của một cực nào.  

3.      Nhìn rộng ra các sáng tác khác của Huyền Quang

Sự đan xen phức hợp các loại hình tượng, các  khuynh hướng thẩm mỹ như vừa nói tới trong chùm thơ vịnh hoa cúc  không phải là cá biệt trong toàn bộ sáng tác của ông. Nhìn các sáng tác khác ta cũng bắt gặp sự đan xen với quy mô giữa các bài với nhau.

Với bài Diên Hựu tự:

延祐寺
上方秋夜一鐘闌,
月色如波楓樹丹。
鴟吻倒眠方鏡冷,
塔光雙峙玉尖寒。
萬緣不擾城遮俗,
半點無憂眼放寬。
參透是非平等相,
魔宮佛國好生觀。

Phiên âm
Diên Hựu tự
Thượng phương thu dạ nhất chung lan, 
Nguyệt sắc như ba phong thụ đan. 
Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh, 
Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn. 
Vạn duyên bất nhiễu thành già tục, 
Bán điểm vô ưu nhãn phóng khoan. 
Tham thấu thị phi bình đẳng tướng, 
Ma cung Phật quốc hảo sinh quan.

Dịch nghĩa:
Chùa Diên Hựu
Đêm thu, trên chùa thoảng tiếng chuông ngân,
Ánh trăng như sóng, cây phong lá đỏ.
Bóng “xi vẫn” nằm ngủ ngược dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá,
Hai ngọn tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt.
Muôn vàn nhân duyên không vương vấn là bức thành che niềm tục,
Không lo lắng chút gì nên tầm mắt mở rộng.
Hiểu thấu ý nghĩa của thuyết phải trái đều như nhau,
Thì xem cung ma có khác gì nước Phật.

Bài này  thể hiện triết lý Thiền quan trọng được truyền thừa trong Trúc lâm: bản tâm tự tại thanh tĩnh là gốc của giải thoát và tư tưởng bất nhị kiến là con đường để đạt tới trí huệ đích thực. Nếu chỉ đọc bài này, có thể thấy cái cảnh giới của tâm không thanh tĩnh siêu thoát  của thiền sư đắc đạo. Nhưng nếu đọc sang bài khác, bài Ai Phù Lỗ:

哀扶虜
課血書成欲寄音,
孤飛寒雁塞雲深。
幾家愁對今霄月,
兩處茫然一種心。

Phiên âm
Ai phù lỗ
Khóa huyết thư thành dục ký âm, 
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. 
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt. 
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm.


Dịch nghĩa:


Thương tên bị giặc bắt

Chích máu viết thư muốn gửi tin tức, 
Cánh nhạn lạnh lùng bay lẻ loi ngoài quan ải đầy mây.
Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay,
Đôi nơi xa cách nhưng cùng một lòng thương nhớ.

Ta lại thấy một cõi lòng khác hẳn, nếu cho đó là tâm Bồ tát từ bi bao dung cũng đúng, nhưng trước hết đó vẫn là tấm lòng dễ rung động, dễ cảm thông, cảm thời, cảm người, đồng điệu cùng người. Đây là con người nhạy cảm, dễ buồn dễ vui, tâm này là tâm động buồn vui với những nỗi đời trần thế. Nó theo dòng mạch của Thi Thánh Đỗ Phủ chứ không phải theo lối của Vương Duy. Thế nhưng chúng lại cùng tồn tại, cùng biểu thị bởi một con người. Đây có thể xem là một trạng thái đan xen phức hợp nhiều trạng thái tinh thần, nhiều khuynh hướng thẩm mỹ. Nó hoàn toàn phù hợp với tình trạng đan xen hòa hợp trong những bài thơ vịnh hoa cúc đã được nói tới ở trên. Có người gọi nó là trạng thái mâu thuẫn ([10]). Tôi cho rằng đó là sự đan xen, sự phức hợp chứ không phải là mâu thuẫn.

Lời kết

Các sáng tác thơ của Huyền Quang phản ánh rất rõ hiện trạng của đời sống tinh thần tầng lớp trí thức, của các quan niệm thẩm mỹ, các thể tài văn học,  giai đoạn cuối Trần. Đây là quá trình chuyển giao giữa hai thời đại, thời đại Phật giáo sang thời đại Nho giáo, giữa văn chương Phật giáo và văn chương Nho giáo thế tục. Những tác gia văn học xuất hiện trong khoảng chuyển giao đó vừa  mang những đặc trưng của văn chương đời Phật giáo đời Trần, vừa nảy nở những đặc điểm, những cảm xúc, những khuynh hướng và những đặc trưng thẩm mỹ của văn học nhà Nho. Cũng có rất đậm tinh thần của Lão Trang chen vào đó. Các yếu tố này cùng đan xen, tới mức thật khó có thể phân cắt chúng đâu là Nho đâu là Thiền, đâu là Đạo. Khi chúng cùng tồn tại trong một tinh thần của chủ thể, có lúc nó  thể hiện ra bằng một hình tượng bao chứa tất cả, nhưng cũng tùy thời tùy cảnh nó thể hiện ra có thiên về phía này hay đậm về phía khác. Cũng dễ nhận ra là cả ba đặc điểm của văn chương tính theo Tam giáo dung hợp trong một hiện tượng văn học thì đương nhiên chúng không còn ở trạng thái tiêu biểu đặc trưng.

Nhìn từ phương diện tư duy nghệ thuật và hình thức thể hiện, Huyền Quang không còn dùng những bài kệ để thuyết giáo như các thiền sư đời Lý, cũng không có những bài thơ đầy Thiền ngữ hoặc triết lý Thiền như Tuyệ trung Thượng sĩ hay Trần Nhân Tông. Chất Thiền bàng bạc  của  thơ ông thể hiện chủ yếu ở cái thiền thú, thiền cảnh.  Yếu tố trữ tình trong thơ ông đã rất tiêu biểu, rất đậm nét. Những bài thơ đề vịnh hoa cúc của ông cho thấy loại hình thơ ngôn chí, cảm hoài theo phong cách nhà nho đã được ông vận dụng khá phổ biến. Loại thơ ngôn chí đề vịnh được dùng để chuyển tải, thể hiện cả cái mỹ cảnh của Thiền- Đạo – Nho.

Sự tích hợp Tam giáo trong một con người đương nhiên sẽ không diễn ra mâu thuẫn. Trong từng cảnh huống khác nhau, nó sẽ thể hiện thiên về một phía nào đó. Xét về thể thì nó chiết chung không cực đoan về phía nào để cùng tồn tại. Xét về dụng thì tùy thời tùy cảnh tùy tình mà thể hiện thiên về một hướng nào đó. Có lúc tâm thanh tĩnh thể hiện ra bằng hình tượng siêu trần thoát tục, tự nhiên tự tại. Có lúc thể hiện bằng cái tâm tự ngã ý thức, tự ngã hoàn thiện, tự ngã tự tôn… theo cách của Nho gia. Xu hướng chung rõ ràng là yếu tố Nho gia lớn dần và là xu hướng phát triển của thời đại. Sự chuyển giao mô hình tác gia văn học từ quý tộc thiền sư sang kẻ sĩ Nho học là xu hướng không phải chỉ do sự phán đoán dựa trên thân phận và ứng xử xã hội, mà trước hết nhìn thấy từ chính các góc độ tư duy nghệ thuật và góc độ thẩm mỹ của văn chương.


Nhiều người cùng cảm nhận thấy thơ của Huyền Quang bao chứa những nỗi buồn bàng bạc và có người cho rằng đó là những băn khoăn, phân vân giằng xé, mâu thuẫn đầy uẩn khúc và tóm lại là những niềm xao động trước cuộc đời[11]. Người viết bài này không hẳn tán thành cách lý giải và đánh giá đó. Không thấy chỗ nào là giằng xé, uẩn khúc trong cõi lòng tác cả. Nó chỉ ở mức độ thoảng một nỗi buồn. Cái buồn bàng bạc trong thơ.  Có lẽ đó chỉ là sự gia tăng yếu tố thực tại, những tình cảm chân thực  tràn ngập nhân tình nhân tính chứa đầy trong thơ. Gần tới cõi thẩm mỹ và thế giới thi ca của nhà Nho hơn,  ông cũng bộc lộ nhiều hơn cái ưu thời,  cảm thời, cảm khái, dễ xúc động. Tâm ông là tâm đa cảm, đem cái tâm đó để thể hiện Thiền tứ Thiền ý,  chứ không phải tâm không vô sắc tướng.  Ông cũng đi tìm sự thanh tĩnh trong đời, nhưng âm thanh của cuộc sống vang vọng đầy trong thơ ông. Những âm thanh của cuộc sống  trong thơ có lúc như đợt sóng triều lấn lướt tràn qua tâm Thiền, nhưng cũng có lúc những âm thanh cuộc sống thực đó bị đẩy xa, chỉ còn lại cái trong trẻo thanh lắng. Cái buồn trong thơ ông chỉ ở mức đó mà thôi.


Sự đan xen các đặc trưng thẩm mỹ trong thơ của Huyền Quang với xu hướng gia tăng yếu tố thực tại, yếu tố trữ tình, yếu tố triết lý, ngôn chí, cảm hoài đánh dấu sự gia tăng dần những đặc tính của văn học nhà Nho và sự  chuyển biến những đặc tính và cách thể hiện của văn học Phật giáo. Sự xuất hiện của văn chương nhà Nho không phải đợi tới khi có tầng lớp Nho sĩ đông đảo thế kỷ XV, nó đã thấp thoáng trong thơ của Trần Nhân Tông và đậm lên ở Huyền Quang. Sự nghiệp văn học của Huyền Quang có vai trò như một dấu chuyển quan trọng giữa  hai thời đại văn học.

                                                            Hà Nội giữa tết Kỷ Sửu, xuân 2009
Thư mục tài liệu tham khảo chính
  1. Nhiều tác giả: Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý -Trần. NXB KHXH, H.1981
  2. Nhiều tác giả: Thiền học thời Trần. NXB Tôn[12] giáo, 2003.
  3. Nguyễn Hùng Hậu: Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam. NXB KHXH, H.1997
  4. Nguyễn Duy Hinh: Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam. NXB Hội nhà văn Việt Nam, 1999
  5. Nguyễn Phạm Hùng: Văn học Lý -Trần nhìn từ thể loại. NXB GD, H.1996.
  6. Nguyễn Phạm Hùng: Thơ thiền Việt Nam-Những vấn đề lịch sử và tư tưởng nghệ thuật. NXB ĐHQG, H.1998
  7. Nguyễn Phạm Hùng: Các khuynh hướng văn học thời Lý Trần- NXB ĐHQG, HN. 2008.
  8. Viện Văn học: Thơ văn Lý -Trần. Tập I. NXB KHXH, H.1977
  9. Viện Văn học: Thơ văn Lý -Trần. Tập III. NXB KHXH, H.1978
  10. Viện Văn học: Thơ văn Lý - Trần. Tập II. Quyển thượng. NXB KHXH, H.1989
  11. Trần Đình Sử: Mấy vấn đề thi pháp văn học Trung đại Việt Nam, NXB GD, 1999
  12. Bùi Duy Tân: Khảo luận dòng văn học trung đại Việt Nam. NXB ĐHQG, H.2005
  13. Nguyễn Đăng Thục: Thiền học Việt Nam. NXB Thuận Hóa, 1997
  14. Nguyễn Đăng Thục: Thơ Thiền Việt Nam. NXB Thuận Hoá, 1997
  15. Ngô Tất Tố: Văn học đời Trần Việt Nam. NXB Mai Lĩnh, H.1942
  16. Phan Cẩm Thượng: Bút pháp nghệ thuật Phật giáo. NXB Mỹ Thuật, 1996
  17. Nguyễn Duy Hinh: Yên Tử-Vua Trần-Trúc Lâm. Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2, H.1977
  18. Nguyễn Duy Hinh: Tìm hiểu ý nghĩa xã hội của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. TM.217
  19. Nguyễn Duy Hinh: Phật giáo với văn học Việt Nam. TCVH, số 4, 1992.
  20. Trần Thị Băng Thanh: Thử phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn học mang dấu ấn Phật giáo thời trung đại. TCVH, số 4. H.1992
  21. Trần Thị Băng Thanh: Những nghĩ suy từ văn học trung đại- KHXH, HN 1999.
  22. Đoàn Thị Thu Vân: Một vài nhận xét về ngôn ngữ thơ Thiền Lý - Trần. TCVH, số 2, H.1992
  23. Đoàn Thị Thu Vân: Quan niệm con người trong thơ Thiền Lý - Trần. TCVH, số 3, H.1993
  24. Tầm Vu: Tìm hiểu đặc điểm của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời đại Lý Trần qua tác phẩm văn học. TCVH, Số 2, H.1972

Chú thích:



[1] Đỗ Khắc Chung ( ? – 1330), một nhà Nho có tên tự là Cúc Ẩn, có hai bài thơ vịnh cúc, những bài của ông khá tiêu biểu cho loại thơ vịnh vật, cho loại thơ ngôn chí, ông là người cùng thời với Huyền Quang. Điều này sẽ góp phần củng cố cho nhận định của chúng tôi ở cuối bài viết về việc xuất hiện thơ vịnh vật theo hướng thơ ngôn chí là dấu hiệu của sự gia tăng tính chất và đặc trưng thẩm mỹ của văn học nhà Nho giai đoạn cuối Trần.
[2] Nguyên tác các bài thơ của Huyền Quang được trích dẫn trong bài viết đều theo  Thơ văn Lý Trần
[3] Một danh sĩ đời Hán, khi Vương Mãng cướp ngôi, ông cáo quan về quê. Ông nổi tiếng là kẻ sĩ cao khiết.
[4] Xử sĩ Tây hồ tức Hàn Thế Trung đời Tống, tự là Lương Thần, một người có nhiều võ công. Trong cuộc chiến tranh với nhà Kim, thấy Tần Cối chủ hòa, triều đình nhu nhược, ông từ quan, mang rượu cưỡi lừa đi ngao du ở vùng Tây hồ để khuây khỏa. Sau khi chết được ban tự là Trung Vũ.
[5] Nhà thơ Đỗ Mục đời Đường có một người bạn tên là Trân, vợ anh ta rất nghiêm nghị, ba năm không cười một lần. Trân đem chuyện phàn nàn với bạn. Các bạn ông bày cho một kế: nhân tiết trùng dương đi chơi núi, khi về thì hái cúc dắt đầy đầu về làm cho vợ thấy ngộ nghĩnh mà phải bật cười. Lần ấy quả  nhiên vợ Trân cười rất vui vẻ.
[6] Câu này trong Thơ văn Lý Trần Tập II, Q thượng dịch là : “Đúng thì, vẻ đẹp đáng yêu, hương thơm đáng chuộng đều giống nhau”, người viết hiểu theo một ý hoàn toàn khác.
[7] Bông hoa ở dậu phía đông tức chỉ hoa cúc. Câu thơ lấy điển từ câu thơ của Đào Uyên Minh:  Thái cúc đong ly hạ, du nhiên kiến Nam sơn.
[8] Tọa vong:  Phép tu tâm của Đạo gia và Đạo giáo.
[9] Xem : Trần Đình Sử- Thi pháp văn học trung đại
[10] Xem Nguyễn Phạm Hùng – Các khuynh hướng văn học thời Lý Trần- Huyền Quang và niềm xao động trước cuộc đời- tr 108- 112. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội- HN 2008.
[11] Xem Nguyễn Phạm Hùng- đã dẫn.